Nguyễn Tấn Dũng

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng là ai?

Chuyên mục: Tin Biển Đông

Tàu trinh sát Trung Quốc bị chìm ở gần Hoàng Sa?

Ngày 7-7, rất nhiều báo mạng, trang tin điện tử Hoa ngữ đều đăng lại thông tin trên báo The Apple Daily xuất bản ở Hongkong số ra cùng ngày về việc một tàu trinh sát đo đạc biển của hải quân Trung Quốc bị chìm ở gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Tàu 871 khi đang hoạt động trên biển.

Tàu 871 khi đang hoạt động trên biển.

Theo báo này, gần đây trên mạng của Trung Quốc lan truyền tin chiếc tàu trinh sát đo đạc biển mang số hiệu 871 của Hạm đội Nam Hải “gần đây đã bị chìm tại vùng biển Tây Sa (Hoàng Sa).

Hạm đội Nam Hải đang tổ chức trục vớt, tạm thời chưa có tin về người thương vong. Vụ việc này chưa được chính thức xác nhận. Quân đội Trung Quốc và chính quyền đều chưa lên tiếng trả lời về những tin đồn trên.

Tin này được đưa trên các trang diễn đàn mạng lớn Kaiti, Baitu, QQ, đến tối 6-7 vẫn chưa bị gỡ bỏ. Tin cũng cho biết, chiếc tàu này vừa mới đại tu ở Quảng Châu tháng 4 vừa qua, sau đó được đưa xuống Biển Đông từ trung tuần tháng 4.

Tin không cho biết tàu 871 bị chìm vì nguyên nhân gì, cũng không nêu rõ toạ độ xảy ra vụ việc. Tàu 871 những năm trước đây đã nhiều lần xuất hiện ở vùng biển đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) tranh chấp giữa Trung Quốc với Nhật, năm ngoái được đưa về Quảng Châu đại tu.

Đây là tàu trinh sát đo đạc biển, lượng giãn nước 5.000 tấn, được đặt tên là “Lý Tứ Quang”, là tàu đo đạc tổng hợp biển tầm trung và xa do Trung Quốc tự thiết kế chế tạo, đã tiến hành đo đạc hàng triệu km vuông mặt biển.

Nó tiến hành đo đạc về độ sâu, địa hình đáy biển, mực triều, khí tượng, thuỷ văn…được coi là “Tiên phong mở đường cho tàu ngầm hải quân”.

Trong 13 năm kể từ khi đưa vào sử dụng, tàu 871 đã thực hiện hành trình 370.000 hải lý, đi khắp Thái Bình Dương và 3 vùng biển lớn của Trung Quốc.

Cho đến chiều ngày 7-7, vẫn chưa có thông tin xác nhận hay bác bỏ vụ việc này từ các cơ quan chính thống của Trung Quốc.

"Rồng giấy" Thi Lang bơi ra Biển Đông

Trong bối cảnh Philippines ngày càng kiên quyết cộng với sự can thiệp tích cực của Mỹ trên biển Đông, cuối cùng Trung Quốc đã phải dùng tới con bài tẩy của mình là tầu sân bay. Nhưng liệu rằng biện pháp này của Trung Quốc có làm dịu đi căng thẳng đang leo thang trên biển Đông hay sẽ châm ngòi cho một cuộc chạy đua vũ trang “tổng lực” trong khu vực…

“Rồng” Thi Lang sẽ mang lại lợi thế lớn cho Trung Quốc trên biển Đông?

Thời báo Tân Hoa xã Trung Quốc đã đăng tải một loạt bức ảnh mới nhất về chiếc tàu sân bay đầu tiên của nước này.

Hành động “khoe” tàu chiến của Trung Quốc diễn ra trong bối cảnh căng thẳng biển Đông leo thang vì một cuộc tranh chấp lãnh hải giữa Bắc Kinh và Manila đã khiến cho nhiều người bày tỏ sự quan ngại.

Được biết, tàu sân bay Thi Lang của Trung Quốc vừa trở về cảng Đại Liên ngày 15/5/2012 sau một chuyến thử nghiệm trên biển kéo dài 9 ngày, sớm hơn 2 ngày so với kế hoạch ban đầu. Như vậy, con tàu này đã trải qua 6 lần thử nghiệm trên biển.

Theo một số nguồn tin, Trung Quốc dự kiến sẽ đưa tàu sân bay Thi Lang vào biên chế chính thức của Lực lượng Hải quân trong đầu tháng 8 tới và con tàu này sẽ trực chiến ở Biển Đông.

Đây là động thái có thể khuấy động khu vực Biển Đông vốn đầy sóng gió.

Trung Quốc quyết định điều động tầu sân bay trực chiến tại biển Đông

Tàu sân bay sẽ giúp cho Trung Quốc giải được bài toàn hóc búa là khoảng cách địa lý trong tranh chấp với Philippines. Có thể Thi Lang chưa hoàn thiện bằng tầu sân bay của Mỹ, nhưng ít nhất nó cũng trở thành một căn cứ không quân trên biển Đông.

Một khi Thi Lang đã “xuống biển” điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc đã nắm được lợi thế so sánh gần như tuyệt đối với Philippines.

Nhưng nhiều người sẽ đặt câu hỏi tại sao Trung Quốc lại cần tới “dao mổ trâu”. Câu trả lời rõ ràng là Trung Quốc đang muốn nhằm vào “kẻ” đang đứng sau chống lưng cho Manila.

Nếu xét về lý thuyết tầu ngầm tấn công hiện đang có mặt tại biển Đông của Mỹ chỉ có thể cầm chân chứ không thể “tiêu diệt” được Thi Lang cùng hạm đội tầu hộ tống của nó.

Trong hoàn cảnh này thì rõ ràng Bắc Kinh đang quyết đem toàn bộ “vốn liếng” ra đấu một ván bài quan trọng với Mỹ. Có lẽ bản thân Mỹ lúc này cũng khá bất ngờ trước lời tuyên bố này của Trung Quốc, bởi khả năng phòng thủ cũng như tấn công của Thi Lang vẫn là một bí mật…

Biểu tượng chiến thắng, hay chỉ là “rồng” giấy trong mắt Mỹ?

Với chiều dài 300m và nặng khoảng 60.000 tấn, tàu Thi Lang được xem là tàu chiến lớn nhất khu vực châu Á. Tàu sân bay vốn được xem là thứ vũ khí bá chủ trên đại dương, là biểu tượng sức mạnh trên biển của bất kỳ quốc gia nào sở hữu nó. Việc Trung Quốc đưa tàu sân bay đầu tiên vào biên chế trực chiến trên biển Đông đã khiến nhiều nước lo ngại.

Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích tin rằng, tàu Thi Lang của Trung Quốc là “tàu lớn” nhưng “cú đấm nhỏ”. Theo các nhà phân tích, tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc có thể làm thay đổi phần nào cán cân quyền lực trong khu vực nhưng không thể giúp Trung Quốc xác lập vị trí bá chủ ở biển Đông. Thậm chí, có người còn coi tàu sân bay Trung Quốc chỉ là thứ vũ khí mang tính biểu tượng.

Đại diện chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ cho rằng tàu sân bay của Trung Quốc chỉ mang tính biểu tượng về sự gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc chứ thực sự không có giá trị về khả năng chiến đấu.

Trung Quốc hy vọng tầu sân bay Thi Lang sẽ trở thành cứu cánh cho Hải quân nước này khi phải đối mặt với Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ

Chuyên gia phân tích quân sự Paul Wright nhận định rằng chỉ một tàu sân bay không thể tạo ra ảnh hưởng lớn.

Ông Wright lập luận: “Nhiều nước khác như Thái Lan và Brazil cũng có một tàu sân bay nhưng hầu như không tạo được khác biệt gì”.

Trước thông tin Trung Quốc đưa tầu sân bay vào trực chiến, các chuyên gia quân sự của Indonesia, Singapore, Philippines đều cho rằng sự xuất hiện tàu sân bay của Trung Quốc sẽ không làm thay đổi cân bằng quân sự tại biển Đông nếu như Mỹ không bỏ rơi Asean.

Bản thân một chuyên gia tại Viện Nghiên cứu Hải quân Trung Quốc cũng nhận xét với tờ “Thời báo hoàn cầu” rằng: “Dù Trung Quốc có hoàn thiện chiếc tàu sân bay mua từ Ukraine, công nghệ của nó vẫn lạc hậu so với các tàu của các nước khác như Mỹ về phương diện chức năng lẫn trang bị”.

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất lúc này là sự hiện diện của tầu ngầm tấn công Mỹ trên biển Đông, còn tầu sân bay đầu tiên của Trung Quốc lại đang được lệnh trực chiến, vậy liệu rằng một viễn cảnh nào sẽ xảy ra trên biển Đông nếu các quốc gia liên quan không chịu ngồi lại với nhau?

Thái Yên (Tổng hợp)

Học bổng nghiên cứu Biển Đông

Học viện Ngoại giao thông báo triển khai Chương trình Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông trên toàn quốc. Dự kiến năm 2012 sẽ cấp 20 suất hỗ trợ (mỗi suất 10.000.000VNĐ) cho các nghiên cứu xuất sắc, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo và thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông.

Chương trình được thực hiện nhằm hỗ trợ, khuyến khích các sinh viên đại học và cao học viết chuyên đề nghiên cứu về chủ đề Biển Đông, qua đó thúc đẩy việc nghiên cứu về Biển Đông trong toàn quốc, đồng thời phát hiện các tài năng trẻ, đam mê nghiên cứu về Biển Đông để tiếp tục đào tạo nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, thúc đẩy hợp tác vì hòa bình và phát triển ở Biển Đông.

Trong năm 2012 chương trình dự kiến cấp 20 suất hỗ trợ (mỗi suất 10.000.000VNĐ) cho các sinh viên, có luận văn tốt nghiệp, hoặc công trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến Biển Đông từ các góc độ lịch sử, pháp lý, kinh tế và quan hệ quốc tế, v.v. Tác giả của 3 nghiên cứu xuất sắc nhất sẽ được mời tham gia và trình bày tham luận tại Hội thảo Quốc gia về Biển Đông lần thứ ba dự kiến tổ chức tại Hà Nội vào quý III năm 2012.

Các nghiên cứu gửi đến tham dự Chương trình sẽ được đánh giá và chọn lọc bởi hội đồng xét duyệt bao gồm các chuyên gia hàng đầu trong nước về vấn đề Biển Đông.

Các sinh viên, học viên cao học có thể đăng ký tham gia Chương trình theo Mẫu đăng ký và gửi đến chương trình thông qua Trường/Viện nơi các học viên đang tham gia học tập và nghiên cứu, hoặc gửi trực tiếp đến Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông -Học viện Ngoại Giao (69 Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội).

Thời hạn đăng ký tham gia Chương trình đến 30/4/2012; hạn chót để gửi bài nghiên cứu hoàn chỉnh là 30/7/2012.

Thông tin thêm xin đề nghị liên hệ với Anh Nguyễn Tiến Thịnh, Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông, Học viện Ngoại giao.

Email:  tienthinh.nguyen@gmail.com
Điện thoại : 04.38344540 (Ext: 224)
Fax : 04.38343543
Di động: 0904 793369

Download Mẫu đăng ký

Trung Quốc lại "lộng ngôn và ngông cuồng" đe doạ các nước ở Biển Đông

Doãn Trác, một thiếu tướng quân đội chuyên tham gia bình luận các sự vụ liên quan tới biển Đông không ngần ngại nói thẳng, việc Philippines “xóa bỏ mọi dấu vết không liên quan đến chủ quyền của Philippines trên bãi Scarborough” đã đủ lý do (cái cớ) cho một hành động quân sự đáp trả. Thậm chí Bắc Kinh có quyền chủ động lựa chọn hành động quân sự ở cấp độ nào.

Căng thẳng trên bãi cạn Scarborough đang có dấu hiệu gia tăng khi truyền thông nhà nước Trung Quốc liên tục lên tiếng lấn lướt, dọa nạt Philippines về “hậu quả” Manila sẽ phải gánh chịu nếu cứ tiếp tục cái gọi là “thử thách sự kiên nhẫn” của Trung Quốc.

Tân Hoa Xã, Nhân dân nhật báo, CCTV, báo Quân giải phóng đều có xã luận, phân tích xoay quanh chủ đề này.

Tân Hoa Xã tối 9/5 có bài xã luận “nhắc nhở” Phillippines với thông điệp y như Thứ trưởng Ngoại giao nước này, Phó Oánh đã nói với Đại biện lâm thời Philippines, Bắc Kinh đã chuẩn bị mọi phương án đối với Manila trong mọi tình huống.

Thậm chí xã luận Tân Hoa Xã còn “cao giọng nhắc nhở” các nước quanh biển Đông “đừng bất chấp hậu quả mà thử sự kiên nhẫn của Trung Quốc”.

CCTV 13 liên tục có các chương trình bình luận trực tiếp về căng thẳng trên biển Đông, phát sóng toàn quốc, quy tụ “chuyên gia”

Dù không nói ra “hậu quả” cụ thể là gì, nhưng giới phân tích, bình luận, “chuyên gia” công khai nói thẳng trên các báo, các chương trình bình luận thời sự rằng không loại trừ biện pháp quân sự trên biển Đông và cấm vận thương mại đối với Philippines.

Trong chương trình bình luận thời sự “Tầm nhìn toàn cầu” tối qua 9/5 của đài truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV, nhóm “chuyên gia quân sự” Bắc Kinh đã khẳng định, hoạt động diễn tập đổ bộ của hạm đội Nam Hải trong thời gian này có liên quan trực tiếp đến tình hình căng thẳng trên bãi Scarborough.

Doãn Trác, thiếu tướng hải quân TQ, chuyên bình luận các vấn đề quân sự liên quan đến biển Đông hé lộ một giải pháp quân sự đối với Philippinse

Doãn Trác, một thiếu tướng quân đội chuyên tham gia bình luận các sự vụ liên quan tới biển Đông không ngần ngại nói thẳng, việc Philippines “xóa bỏ mọi dấu vết không liên quan đến chủ quyền của Philippines trên bãi Scarborough” đã đủ lý do (cái cớ) cho một hành động quân sự đáp trả. Thậm chí Bắc Kinh có quyền chủ động lựa chọn hành động quân sự ở cấp độ nào.

Cũng trong chương trình bình luận thời sự phát sóng toàn quốc này, Doãn Trác cho hay tàu Ngư chính 310 đang “trực ban” tại bãi Scarborough có thể kiểm tra thuyền và bắt giữ ngư dân Philippines bất cứ lúc nào nếu như tàu cá nước này “xâm phạm” khu vực bãi Scarborough.

Ngư chính 310 có thể bắt bớ tàu cá, ngư dân Philippines bất cứ lúc nào khi họ quay trở lại Scarborough đánh bắt

Tống Hiểu Quân, một bình luận viên quân sự kỳ cựu của đài truyền hình Phượng Hoàng, Hồng Kông cũng được mời tham gia chương trình này.

Khi Doãn Trác và người dẫn chương trình Phương Xuân Yến đề xuất một “giải pháp” đối với Philippines là cấm vận thương mại, Tống Hiểu Quân cho rằng cần hết sức thận trọng bởi người đầu tiên chịu thiệt hại nếu cấm vận Philippines chính là các doanh nghiệp Trung Quốc.

Trong một động thái khác có liên quan, hôm qua 9/5 Bộ Ngoại giao Trung Quốc họp báo cho biết, Bắc Kinh vẫn đang “đốc thúc” Manila quay trở lại “quỹ đạo”.

Xã luận trang đầu Tân Hoa Xã: “Đừng mơ cướp 1 tấc đất của Trung Quốc!” cao giọng nhắc nhở “Philippines và các nước quanh biển Đông”
Về việc CNOOC muốn hợp tác với Philex khai thác khí đốt trên bãi Cỏ Rong (thuộc chủ quyền Việt Nam), Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết: “Còn phải chờ xem thành ý của Philippines thế nào đã!”

Hồng Thủy (nguồn CCTV, Tân Hoa Xã)

Thế kẹt trước Trung Quốc: Bản lĩnh và sự khôn khéo của Việt Nam

Sự đi xuống của Mỹ trong vai trò “siêu cường duy nhất” của thế giới cùng việc Trung Quốc nổi lên nhanh chóng như là cường quốc nổi trội ở khu vực Đông Á đã tạo ra một thế khó cho Việt Nam. Nối lại quan hệ với Mỹ và gia nhập ASEAN là những biểu hiện của sự khéo léo về ngoại giao của Việt Nam.

Mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc là một phép thử về thách thức chiến lược mà Việt Nam phải đối mặt trên nền tảng lịch sử lâu dài. Việc nối lại quan hệ với Mỹ và gia nhập ASEAN là những biểu hiện của sự khéo léo về ngoại giao của Việt Nam. Sự đi xuống của Mỹ trong vai trò “siêu cường duy nhất” của thế giới và sự nổi lên nhanh chóng của Trung Quốc với vai trò là cường quốc nổi trội ở khu vực Đông Á đã tạo ra một thế khó cho Việt Nam. Sự nổi lên của Trung Quốc tạo ra một mối đe dọa tiềm tàng, trong khi sự chuyển hướng chiến lược của Mỹ tới châu Á có thể đem lại cho Việt Nam một giải pháp. Trong khi mối thách thức của Trung Quốc đã thử thách sự nhạy bén chiến lược của các quan chức ở Hà Nội, thì đối sách của Việt Nam thể hiện ở nhiều mặt và có vẻ như tuân theo 9 định hướng lớn. Thứ nhất là thông qua các kênh giữa hai Đảng để cải thiện quan hệ với Trung Quốc.

Thành tựu nổi bật của nỗ lực này là việc giải quyết tranh chấp biên giới trên bộ và gần như toàn bộ Vịnh Bắc Bộ – nhưng không phải là Biển Đông. Thứ hai là xây dựng sức mạnh của Việt Nam bằng việc cải cách và mở cửa nền kinh tế – còn gọi là Đổi Mới – và nâng cấp các lực lượng vũ trang với trọng tâm là khả năng chống tiếp cận trên biển. Thứ ba là gia nhập và liên kết với ASEAN để làm cho bất cứ mối đe dọa nào đối với Việt Nam ngày càng được coi là một mối đe dọa với tất cả. Thứ tư là sử dụng mọi cơ hội thông qua sự hiện diện chính thức, các tuyên bố công khai, các cuộc tập trận quân sự, và “sự thật trên thực địa” để khẳng định “quyền chủ quyền” của Việt Nam trên Biển Đông. Thứ năm là tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán nhằm giảm bớt các tranh chấp lãnh thổ giữa các nước ASEAN trên Biển Đông để tạo ra một mặt trận thống nhất trước Trung Quốc. Thứ sáu là lôi kéo các công ty dầu lửa quốc tế (trong đó có Ấn Độ) vào Biển Đông bằng việc đưa ra các điều khoản hấp dẫn trong các hợp đồng. Thứ bảy là phát triển mối quan hệ gần gũi hơn với Nhật Bản và nâng cấp quan hệ quân sự với Nga và Ấn Độ – trong đó có khả năng cho hải quân tiếp cận với Cảng Cam Ranh. Thứ tám là thông báo cho Bắc Kinh thường xuyên và công khai rằng Việt Nam “không bao giờ có thể chấp nhận” các tuyên bố về biển của Trung Quốc. Cuối cùng là phát triển một mối quan hệ ngày càng gần hơn với Mỹ, cả về kinh tế, ngoại giao và quân sự. Sự phát triển của quan hệ quân sự với Mỹ là đặc biệt đáng chú ý.

Bắt đầu bằng sự hợp tác thận trọng trong việc giải quyết vấn đề MIA/POW (người Mỹ mất tích trong chiến tranh và tù binh chiến tranh) trong những năm 1980, các mối liên lạc quân sự với quân sự bắt đầu từ giữa những năm 1990. Quan hệ này mở rộng nhanh chóng với các chuyến thăm cảng của tàu hải quân Mỹ, một diễn đàn “đối thoại chiến lược” giữa giới quân sự hai nước, và việc các quan chức cao cấp Việt Nam thường xuyên nhắc tới một “quan hệ đối tác chiến lược”. Động cơ không nói ra nhưng không thể nhầm lẫn được cho là mấu chốt của mối quan hệ này là sự quan ngại chung về Trung Quốc.

Môi trường chiến lược của Việt Nam

Sức mạnh đang tăng của Trung Quốc tạo ra một môi trường chiến lược rất bất cân xứng cho Việt Nam. Ngày nay không có sự lặp lại thành công về quân sự giống như Việt Nam đã thực hiện vào năm 1979 trước Trung Quốc. Nếu Trung Quốc quyết tâm – chẳng hạn như không cho ngư dân Việt Nam vào các vùng biển ở Biển Đông – có lẽ Việt Nam không thể làm gì được. Tuy nhiên, các xu hướng rõ rệt trong khu vực lại đang có lợi cho Việt Nam. Thứ nhất là sự điều chỉnh trọng tâm chiến lược của Mỹ tới Đông Nam Á và Biển Đông. Hà Nội biết rõ rằng sức mạnh quân sự của Mỹ cuối cùng sẽ là đối trọng hiệu quả duy nhất cho sự mạnh bạo ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Thứ hai là sự bất an rõ rệt và ngày càng tăng tại Đông Nam Á trước các ý đồ của Trung Quốc. Kết quả là chính phủ các nước ASEAN ngày càng sẵn sàng thể hiện mối quan ngại của họ với Bắc Kinh. Trung Quốc từ lâu đã cố gắng giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông với Đông Nam Á trong phạm vi song phương và tránh gây chú ý. Việt Nam thì cố gắng theo hướng ngược lại – quốc tế hóa và công khai hóa. Trong vấn đề cụ thể này, lợi thế thuộc về Việt Nam chứ không phải Trung Quốc.

Về mặt lịch sử, mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc là một bản hùng ca đấu tranh để giành lấy và gìn giữ độc lập dân tộc khỏi sự kiểm soát của Trung Quốc. So với điều này, các cuộc chiến tranh gần đây chống lại sự can thiệp của Pháp và Mỹ sẽ là thứ yếu. Gần một nghìn năm trước, nhân dân Việt Nam đã giành được độc lập với Trung Quốc và duy trì nó (với cái giá không hề rẻ) kể từ đó. Từ khía cạnh này, thời kì cai trị thuộc địa của Pháp, Chiến tranh thế giới thứ Hai và Chiến tranh Lạnh chỉ là những sai số của lịch sử. Trong thời kỳ này, mối oán thù Trung – Việt được hóa giải nhờ vào các mối đe dọa và nhu cầu nổi trội. Trong “Chiến tranh chống Mỹ”, Bắc Kinh và Hà Nội trở thành đồng minh của nhau. Nhưng mối quan hệ đó nhanh chóng đổ vỡ sau năm 1975 khi một Việt Nam chiến thắng và thống nhất đã đứng về phía Mátxcơva và chống lại Bắc Kinh trong cuộc đối đầu Xô-Trung. Câu chuyện lên đến đỉnh điểm vào năm 1979 khi Trung Quốc phản ứng trước việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia (do các cuộc tấn công của Khơme Đỏ vào các làng mạc của Việt Nam) bằng việc cử 30 sư đoàn vượt qua biên giới Việt Nam để thực hiện cái gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học”.

Cuộc chơi mới của Việt Nam

Bài học lớn nhất rút ra là việc Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã không tác chiến tốt theo các tiêu chuẩn quân sự hiện đại. Sự độc lập của Việt Nam được giữ nguyên vẹn. Trong hai thập kỷ kế tiếp, mối quan hệ Trung – Việt bước vào giai đoạn lắng dịu về chiến lược. Cả hai nước đều tập trung vào nhiệm vụ lớn là tái thiết kinh tế và phát triển. Sự sụp đổ của Liên Xô vào đầu những năm 1990 là điều gây bất an cho cả hai nước. Đối với Hà Nội, điều này đồng nghĩa với việc mất đi một nguồn bảo trợ quan trọng về an ninh và kinh tế. Nó cũng đánh dấu sự khởi đầu của một bối cảnh chiến lược hoàn toàn mới, với hai đặc điểm nổi bật là vị trí số một của Mỹ trong vai trò “siêu cường duy nhất” và sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực mà Việt Nam có lợi ích. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN và vị thế ngày càng tăng trong tổ chức này là bằng chứng về khả năng của Hà Nội trong việc tạo một lối đi giữa Mỹ và Trung Quốc. Sự gần gũi ngày càng tăng của Hà Nội với Oasinhtơn, là biểu hiện quan trọng nhất cho sự khéo léo của Hà Nội trong việc giải quyết thế kẹt về chiến lược./.

Giáo sư Marvin Ott là chuyên gia về Đông Nam Á tại Trung tâm Woodrow Wilson, Mỹ

Theo Rsis

Mỹ Anh (gt)